


QUÝ 季 là xếp hạng cuối theo thứ tự người được giải trong các cuộc thi tài, chẳng hạn nhà vô địch đạt huy chương vàng là QUÁN QUÂN 冠軍, người đứng thứ hai được huy chương bạc là Á QUÂN 亞軍, người cuối đạt huy chương đồng là QUÝ QUÂN 季軍 (ĐIỆN QUÂN 殿軍 là hạng Tư, không có Huy chương, ta còn gọi là giải khuyến khích). Chữ QUÝ 季 ở đây có nghĩa là “cuối”, cũng có nghĩa là “còn non”, “còn kém” hơn những người xếp trên. "Thuyết văn giải tự" giải thích chữ QUÝ 季 như sau: "Quý, thiểu xứng dã." (Quý, tức là còn non). Chữ QUÝ chính là chữ gốc của chữ TRĨ 稚 trong từ “ấu trĩ”. Nghĩa gốc của “季” là “cây lúa non”. Hình chữ QUÝ trong Giáp cốt văn bao gồm bộ HÒA 禾 và chữ TỬ 子 tạo thành, chỉ cây lúa còn non. Sau này được mở rộng thành các nghĩa “người trẻ tuổi”, “còn nhỏ”, “cuối”, “út”, v.v.
Chữ DŨNG 勇 nguyên được viết là “甬”, vốn dùng để chỉ cái chuông bằng kim loại, là một trong những pháp khí không thể thiếu trong các lễ nghi cổ xưa. Hình dạng chữ trong Kim văn rõ ràng là hình ảnh của một cái chuông lớn. Phần trên là chỏm có khuyên dùng để treo chuông, phần dưới là thân chuông và nét ngang ở giữa là hoa văn trang trí. Chữ "勇" được thêm bộ "力 " phía dưới, ngụ ý là nâng chuông lên bằng lực của cánh tay . Bởi vì chuông được làm bằng đồng hoặc sắt, nó rất nặng, cho nên, “勇” cũng có nghĩa là “mạnh” hay “có sức mạnh” . Một số dị bản khác thêm "心" vào “甬” thành "恿”, nhấn mạnh rằng lòng can đảm được sinh ra từ trái tim. Các di bản khác nữa lại thêm "戈 " thành “㦷” để thể hiện sự dũng cảm trong chiến đấu.
Chữ TỬ 死 (sǐ) là một chữ Hội Ý. Trong các dạng cổ văn, chữ 死 mô tả hình ảnh một người quỳ gối khóc thương trước di cốt của người đã chết, theo quá trình diến tiến biến đổi dần thành hình thể như ngày nay. Chữ 死 ở khải thư là hội hợp của hai bộ 歹 và 匕. NGẠT 歹 là hình ảnh của hộp sọ có vết nứt, tượng trưng cho bộ xương người chết, trong khi 匕 biểu thị cho người quỳ gối khóc thương, nên 死 có nghĩa là chết hay sự chết.